ĐÊM VẪN ĐEN ( THUYỀN ĐỜI)

Kỳ trước, Chương 4: Cuộc Đời
Vậy là, chúng tôi không còn phải chạy loanh quanh kiếm chỗ đậu; đã chánh thức gia nhập đoàn
ghe vận chuyển hải sản của công ty. Chiếc ghe số 3392 và bến tàu của công ty hết còn xa lạ với nhau.
Chuyến đi, mang nước đá ra Trạm Thu Mua nằm bên ngoài cửa biển. Chuyến về, chở tôm về công ty.
Tiền công tính theo chuyến. Vừa kiếm tiền sinh sống để chờ thời cơ, vừa được mua dầu, dò đường ra
biển, làm quen với công an trên các tàu tuần và các trạm biên phòng…
Đường đến bến bờ tự do, đêm đêm trở về trong giấc mơ, thôi thúc, khoắc khoải, kinh hoàng. Bên
giấc mơ với nụ cười, với nước mắt tủi mừng nơi đất nước và bầu trời tự do xa lạ; còn có những cơn
ác mộng bị đắm chìm trong biển sâu, hay đau đớn oằn người trong gông cùm cộng sản…
Đại dương mênh mông!
Thuyền đời mong manh quá!

Đây, Chương 5: Đêm Vẫn Đen.

. . .

Mấy ngày nay biển động quá!
Dân đánh lưới cá và tôm không dám ra khơi. Ghe chúng tôi phải nằm chờ cho trạm
“thu mua” thêm tôm, cho đủ số lượng hải sản của một chuyến; mới được chở hàng
về công ty. Sau này, dưới chế độ cộng sản cai trị, người dân bị mất nhiều tự do lắm.
Giống như các ngành nghề lao động khác, người làm nghề đánh cá cũng phải vào

“hợp tác xã,” và phải bán hải sản cho các nơi gọi là “Trạm Thu Mua”; đó là cơ quan
chuyên “thu mua” của nhà cầm quyền ở địa phương. Cũng từ đó, có thêm thứ chữ
nghĩa mới, gọi là “thu mua”!
Đến cuối tháng Tư, thời tiết trở nên bất thường. Hồi sáng này gió mạnh hơn. Sóng
cao, và bọt biển thành những vệt dài. Biển động thất thường, thì các chuyến vượt
biển bằng ghe thuyền nhỏ bị mất dần cơ hội để trốn đi. Mấy ngày nay, không thuyền
ghe ra khơi đánh cá, và cũng không thấy bóng dáng tàu bè nào chạy vào. Mưa cứ
nối nhau, từng cơn ào ạt trút nước lên vạn vật. Bãi biển cạn. Sóng đùa ì ầm vào bờ.
Sóng cuộn nhào đất bùn; vùng biển ven bờ đục ngầu màu phù sa nâu đỏ. Trời và
biển như hòa nhập vào nhau, thành một khối mù mờ; trông thật thê thảm. Trùng
dương xám xịt. Lòng người chùng xuống… thật buồn!
Trong lúc trời biển âm u và mưa mù mịt như thế này, ngoài khơi chắc vẫn có ghe
thuyền của đồng bào mình đang vượt sóng gió tìm tự do. Có lắm người vượt biển đã
phải liều lĩnh ra khơi bằng ghe tàu mỏng manh, hay chọn hiểm nguy trong mùa biển
động; để dễ có cơ hội lọt qua theo dõi và lùng kiếm, của công an cùng các lực lượng
võ trang, trên đất liền cũng như ngoài biển. Không vướng bận thân quyến và hứa hẹn
cùng trốn đi, ghe chúng tôi chắc cũng đã phóng ra biển khơi, từ đêm khuya hôm qua.
Ra đến Trạm Thu Mua, tức là đã qua khỏi các trạm kiểm soát của công an biên phòng,
hay căn cứ hải quân rồi. Từ đây, chỉ cần phóng ghe chạy thêm một đoạn, chừng nửa
giờ, là ra đến hải phận quốc tế; lúc này có chết, cũng được chết trong vùng trời biển
của tự do….
Nhìn đại dương rộng mở, lòng người nôn nao mong ước ra khơi; cứ muốn phóng
tàu, ghe, mà chạy đại ra ngoài biển. Miễn sao thoát khỏi cộng sản; có vượt được
trùng dương mà đến được bến bờ tự do hay không, đó là chuyện… tới đâu thì tới!
Tàu đánh cá quanh đây hầu hết thấp, hẹp, gọn gàng, và lướt sóng nhanh; để thích
ứng với các nghề đánh lưới vây, lưới kéo, bắt tôm, cá thu, cá ngân… Nhưng gặp lúc
biển động, ghe tàu nhỏ không dám ra khơi; ghe chúng tôi cũng phải nằm bến tại nơi
đây, mà chờ thời theo ngư dân. Ghe nằm bến thì bị mất chuyến chở hàng. Có chuyến
chở hàng, có tiền mua gạo, mua được dầu để dành cho ngày ra khơi, và có thêm cơ
hội chạy dò đường ra cửa biển.

Thời tiết thế này thì chán lắm!
Chiều xuống, biển có êm bớt. Chưa đến bốn giờ, trời tối như sắp về đêm. Ghe và
nhà đều lấp lánh ánh đèn. Phụ anh Ba nấu cơm, rồi ba anh em quây quần ăn chiều.
Độ nhậu hồi sáng với nhân viên khuân vác trên trạm, còn lưu giữ men rượu trong
huyết quản. Đầu óc ngầy ngật, bần thần, bụng dạ lỡ đói, lỡ no. Húp miếng canh, lua
chút cơm, ăn qua loa cho có bửa cơm chiều. Bên ngoài còn mưa gió ướt át, ba người
ngồi gom bên trong mui ghe một lúc lâu thì tù túng quá. Ăn uống xong, chúng tôi thả
lòng vòng lên Trạm Thu Mua, tán dóc với công nhân viên trên trạm. Khề khà chuyện
trò một lúc cho có tình cảm. Anh Ba đi tìm chú Năm Mạnh, trưởng trạm. Vũ và tôi kéo
hai cái thùng nhựa, gọi là thùng hải sản, đem ra làm ghế và ngồi nhìn ra biển. Thùng
hải sản có hình khối vuông, gồm sáu miếng nhựa cứng; tháo và ráp nhanh chóng, dễ
dàng. Chúng tôi để mắt đến loại thùng này từ lâu nay. Sáu miếng chồng lên nhau chỉ
cao hơn gang tay, gọn lắm. Chục thùng tháo ra, không chiếm bao nhiêu chỗ cất giữ
trong hầm ghe. Mỗi miếng, đủ sức làm phao cho một người lớn. Ghe cần có một số
thùng này khi ra khơi, để làm phao cho mọi người. Chỉ cần ráp vào, lót miếng ny lông
lớn cho nước đừng chảy ra, thì thành thùng chứa nước ngay, rất hữu ích lúc vượt
biển.
Tôi ngồi với Vũ vấn thuốc hút. Chúng tôi ngó trông chừng ghe, nhìn trời biển, nhìn
mưa gió, nhìn người qua lại. Quanh đây, không bông hồng kiêu sa, nhưng cánh hoa
mộc mạc mặn mà, cũng dễ làm những cánh bướm đa tình ươm ấp mộng mơ, lạc lối
quên đường!

Làng đánh cá nghèo. Bây giờ, dân nghèo càng nghèo nàn hơn dưới ách cai trị
của cộng sản. Dân đánh cá bị cướp mất quyền tự do đi biển và buôn bán, càng khốn
đốn hơn với loại tiền của nhà cầm quyền. Mỗi lần đổi tiền thì tiền mới bị mất giá trị
hơn, và người dân chỉ được phép đổi trong giới hạn. Sau đó, số tiền còn dư ra bị nhà
nước tịch thu, hay trở thành tờ giấy vô giá trị.
Từ ngoài khơi nhìn vào nhà sàn, nơi chúng tôi đang ngồi, chỉ một góc nhỏ bên trái
dùng làm văn phòng và kho chứa nước đá cùng hải sản. Phần nhà sàn còn lại thật

rộng lớn, để trống trải, dành cho việc lên hàng và xuống hàng. Nối sát bên phải nhà
sàn là khu nhà dành cho công nhân viên.
Mỗi khi ghe mang nước đá đến, hay lấy hải sản chở về thành phố, không gian nhà
sàn bừng tỉnh dậy. Đèn sáng choang. Công nhân gọi nhau gom tụ lại nơi đây. Nhóm
người không có gì làm, không có trách nhiệm, thì la cà đứng xem chơi cho vui. Căn
nhà trống trải bỗng chốc trở thành chật chội, người và hàng hoá chen lấn nhau. Sàn
nhà lênh láng nước tôm cùng nước đá. Thân người làm công thì đẫm ướt mồ hôi.
Tiếng công nhân khuân vác chuyện trò ồn ào. Máy phát điện, máy xay nước đá, đua
nhau chạy rầm rập. Tiếng máy át tiếng người. Bất kể đang là ban ngày hay giữa lúc
đêm khuya, trạm ồn ào như cái chợ đang nhóm. Công nhân hối hả làm cho xong việc,
để nghỉ ngơi, hay trở lại nhậu tiếp. Người trên ghe thì chờ nước đá lên hết để dọn
dẹp ghe, rồi đi kiếm hàng quán ngồi lai rai nghỉ ngơi; hay lòng vòng trên ghe chờ cho
tôm xuống xong để tháo dây, nhổ neo mà rời bến chở về công ty… Xong công việc,
trống vắng lại trở về. Không có hàng lên, hàng xuống, lúc nào có độ ăn uống nhậu
nhẹt, trạm mới có phần sống động lại.
Mặt trạm xoay ra cầu tàu của khu tiếp nhận hàng để trống thoáng. Gió lớn hắt
mưa vào, chỉ ướt phía ngoài, bên trong cũng khô ráo để ngồi nhìn ra biển. Thế nhưng,
lắm lúc gian nhà hiền hoà, trông có vẻ vô tội vạ này, không chỉ là nơi phục vụ cho
việc mua bán hải sản; nó bị biến thành trại giam, khu tra tấn của công an. Ghe vượt
biên không may bị bắt lại, thường bị tàu công an kéo về đây để tra tấn người, để
cướp đoạt tiền và vàng của người vượt biển; trước khi giải giao người bị bắt, đến các
cơ quan khác. Thuyền nhân bị cột trói, ngồi lố nhố trên sàn trạm. Không ai biết được
bao nhiêu người còn đang dở sống, dở chết, còn bị nhốt bên trong chiếc ghe bất
hạnh. Uất hận ngất trời! Sàn nhà rung chuyển, rập rềnh. Không gian náo loạn. Trạm
đầy ấp người. Công an cùng lính võ trang ở địa phương la hét, xô đẩy, đánh đá những
người bị bắt. Dân sinh sống ở tỉnh thành hay người trốn đi từ thôn xóm, áo quần cùng
giống nhau cái xốc xếch, tả tơi, bê bết dầu máy hay đất bùn. Đám người bị trói, ngồi
co ro, mất thần sắc; lấm lét nhìn những khẩu súng đang ghìm chĩa vào mình đầy hăm
doạ. Mặt kẻ chiến thắng vênh váo khoái trá; thêm một dịp vừa chia chát tiền vàng,

vừa lập công với thành tích lùng bắt những “thằng phạm,” “con phạm”; vượt biên,
vượt biển.
Chữ nghĩa của nhà cầm quyền gọi đồng bào mình như thế đấy!
Thế đấy, đồng bào đã “phạm” cái tội cấm kỵ, mà đảng và nhà cầm quyền rất căm
thù, đấy là “tội” tìm tự do!

Bây giờ ngồi đây, tôi ngước nhìn lên cây đà ngang trên trần nhà, nơi hai người
đàn ông đã từng bị công an treo trên lên ấy để tra khảo; tôi ngẫm nghĩ, biết đâu, có
ngày xác mình cũng bị kéo về, và treo lên trên đấy, để hăm doạ những người còn
toan tính vượt biên. Tôi thấy như trong đó, trong góc phòng, thức ăn dưới tàu bị tịch
thu chất đầy trên mặt bàn. Tai tôi còn nghe vang dậy tiếng khóc thét kinh hoàng của
mấy đứa trẻ con trên tàu, bị công an bợp tay té nhào; vì đã ngây thơ dám mó tay vào
bánh thịt của tàu mình. Xót đau, nhưng tôi không ngạc nhiên trước thái độ bất nhân
của những con người mệnh danh là “công an nhân dân”, “bộ đội nhân dân”, những
kẻ tự hào xưng tụng mình là “cộng sản”. Trong trại tù “cải tạo,” thân quyến đã từng bị
cấm khóc thương khi đến nhận xác người tù. Nhà nước cho rằng thương tiếc người
phạm tội, tức là bày tỏ thái độ bất mãn, chống đối lại phán quyết kết tội của đảng.
Đảng đã can tâm ngăn cấm nước mắt xót thương thân quyến, đã phải chết trong
chốn tù đày; thì còn gì táng tận lương tâm hơn mà đảng không dám làm!
Có phải chăng, chủ nghĩa cộng sản đã huỷ diệt linh hồn con người. Nó biến những
kẻ phục vụ cho đảng trở thành động vật mất nhân tính, cạn tình người, hết nghĩa
đồng bào; chỉ biết cúi đầu và gục mặt để tôn thờ, để phục vụ cho chủ nghĩa bạo tàn?!

Ngước mắt ngó lên trên bến trạm,
Nhìn những thuyền nhân bị bắt về.
Tay trói, gục đầu, lời đã cạn.
Tiếng khóc trẻ thơ, dạ tái tê.
Nhìn người, chợt thấy mình thân thuộc
Tôi khóc hay sao, nước mắt nào?

Tự do ơi hỡi, tim xót buốt!
Dân tôi bất hạnh, lắm thương đau!

. . .

– Ê!… có tin dui!
Nghe tiếng anh Ba ồn ồn thật vui. Hai đứa tôi quay lại, thấy anh Ba đang đi tới.
Anh cười tươi và báo tin:
– Chiều nay mình dìa! Anh mới lên văn phòng, nói là bắt ghe mình nằm bến suốt
mấy ngày nay, tụi tui hết tiền mua gạo rồi. Chú Năm Mạnh nói, công nhân trên trạm
ăn cơm xong, khoảng sáu giờ thì xuống hàng. Có bao nhiêu thì ghe mình chở bấy
nhiêu…
– Bắt mình neo ghe nằm chờ hết ba ngày, vậy là ép lắm rồi!
Vũ khẽ càu nhàu. Nhưng chúng tôi đều biết, ai cũng đều hài lòng. Anh Ba vui vẻ
bảo:
– Anh coi ghe cho, hai đứa lên quán kiếm gì uống đi.
Vũ đứng dậy, vỗ vai tôi:
– Đi mày, tụi mình… lội đi kiếm cà phê uống chơi!… Cà phê sữa hả anh Ba?
Anh Ba cười dễ dãi với hai thằng em:
– Ừ… gì cũng được mà. Hai đứa cứ đi. Anh nằm nhắm mắt nghỉ một chút, để tối
lái ghe dìa!
Đi ngang qua cái bàn nước gần văn phòng, Vũ dừng lại, mượn cái ly, cầm theo
để đựng cà phê đem về cho anh Ba.

Đúng là lội đi uống cà phê!
Đường lên quán cà phê rất hẹp, vừa đủ cho hai người tránh nhau. Mặt đường trồi
sụp, uốn ngoằn nghoèo sát theo hai bên nhà vách lá cũ kỹ. Bùn trơn trợt và uớt nhão
giữa các kẽ ngón chân. Có chỗ, chúng tôi phải lom khom bước lên trên thềm nhà,
mái lá thấp là đà trút nước mưa ngay lên thân người bên dưới. Dân làng nghèo, sinh
sống rất khắc khổ. Đánh lưới được tôm cá ngon, gia đình không dám ăn; phải bán đi

để mua gạo, mua dầu… Quán cũng chỉ sống lây lất qua ngày; phần lớn là nhờ vào
công nhân viên, người làm ăn buôn bán xa nhà. Quán cà phê chỉ là căn nhà nhỏ,
vách lá, như hàng xóm. Ánh đèn dầu vàng, đủ soi sáng không gian gồm bốn cái bàn
gỗ thấp. Hai bàn đã có khách ngồi. Bên các thức uống như cà phê, nước ngọt, dĩ
nhiên không thể thiếu rượu. Rượu trắng, rượu thuốc… và các món đồ nhậu như khô
mực, cá khô, chất bầy ra trên quầy. Vũ uống rượu cũng vững lắm, nhưng anh em
trên ghe không ai ghiền rượu, chỉ uống cho công việc chạy chọt được trơn êm và dễ
dàng mà thôi.
Có chuyến chạy, coi như có tiền vô; chúng tôi tự khao mình ly cà phê trước!
Như các quán bình dân trong thôn xóm, quán chỉ có loại cà phê “kho”; tức là loại
cà phê pha sẵn và ngâm nấu trong bình để giữ nóng. Hương vị cà phê mà “kho” như
thế này thì trở thành đậm đắng, có mùi khen khét hơn là thơm cà phê. Lại thêm,
chẳng biết trong thời buổi hàng hoá đã bị đảng cai trị, mọi thứ nhu yếu phẩm đều
khan hiếm, và còn phải sắp hàng chờ mua ở hợp tác xã; thì người ta đã phải rang
nướng những thứ chi, để pha trộn thành chất bột đen và gọi là cà phê.
Coi vậy chứ, phải uống thì uống!
Dân nghèo mà!
Uống riết rồi cũng phải quen dần cái hương vị của thứ cà phê mới, của xã hội chủ
nghĩa. Nhưng có đường hay sữa ngọt cho thêm vào thì ngọt ngào, dễ uống, ngon
miệng hơn. Quán vùng dân nghèo, được uống ly cà phê có sữa như thế này là đã
sang lắm rồi.
Hết rồi!
Hai đứa tôi không dám ước mơ, được thưởng thức lại hương vị độc đáo của từng
giọt cà phê thơm ngon như trước đây, thời miền Nam mình còn tự do. Dưới ghe có
hộp bột cà phê, mua ngoài chợ; chắc cũng cùng loại bột đen trong quán. Chịu khó
nấu nước và pha cà phê một chút, thì cũng có chất nước đen đắng, để nhâm nhi vậy.
Nhưng dầm mưa, lội trong bùn sình ra quán để ngồi uống cà phê, có cái thú vị của
“ngồi quán” mà uống cà phê. Lại thêm, tạo dịp đi loanh quanh làm quen với người
dân và địa hình trong xóm, cũng có nhiều hữu ích, phòng khi phải chạy trốn, lẩn tránh
trong xóm.

Tối nay chạy về, nhằm lúc ngược dòng nước. Ít nhất cũng phải sáu tiếng đồng hồ
mới về tới bến. Vũ coi máy, anh Ba với tôi thay nhau cầm lái. Ba anh em sẽ phải thức
đêm để chạy ghe, chở hải sản về giao cho công ty. Quán không đông người, hai đứa
cứ thong thả ngồi nhâm nhi cà phê, để yên cho anh Ba nằm nghỉ ngơi trước. Cũng
như anh Ba, Vũ rất khéo ăn nói, lại từng trải về làm ăn, buôn bán; nên Vũ đối đáp và
bắt chuyện với mọi người chung quanh rất dễ dàng. Tuyệt nhất là những bài vọng cổ
của anh Ba. Có anh Ba ngồi ăn nhậu chung, thế nào cũng có người yêu cầu anh làm
vài bản vọng cổ; không mồi ngon người ta cũng thấy buổi nhậu hứng thú, thật đậm
đà. Nhờ có anh Ba và Vũ, chúng tôi hoà nhập vào đoàn tàu và dân cư xung quanh
dễ dàng hơn…
Vì biển động mấy hôm nay, chuyến chạy về lần này, không chở nhiều hàng. Tất
cả các thùng hải sản đều là tồn kho; đã được ướp nước đá giữ cho tươi, và cất trong
phòng nước đá từ mấy hôm trước rồi. Chiều nay, công nhân chỉ cần mở nắp thùng
ra, kiểm lại từng thùng và đổ thêm nước đá xay vào, để tôm có đủ độ lạnh. Chừng
một tiếng đồng hồ, các thùng hải sản được chuyển xuống chất gọn trong khoang ghe.

. . .

Vũ cho máy chạy.
Mấy ngày nay, mới được nghe lại tiếng máy ghe mình. Tiếng máy dầu ấm áp, và
ấm trong lòng. Tiếng máy ghe nhắc nhở và cho chúng tôi niềm hy vọng; còn có một
ngày ghe sẽ đưa mình ra khơi.
Qua khỏi trạm công an biên phòng, ghe mới đến Trạm Thu Mua. Từ Trạm Thu
Mua chạy thoát đi không khó lắm. Cái khó là làm sao đón được gia đình thân hữu lên
ghe, lọt qua tai mắt của công an cùng các tàu tuần và trạm kiểm soát biên phòng,
trước khi ra đến Trạm Thu Mua này. Đứng ngoài mũi chờ tháo dây, tôi nhìn đại dương
rộng mở đợi chờ, lòng bồi hồi ước mơ một ngày thoát đi. Đến đây nhiều lần rồi. Giao
hàng, rồi lấy hàng, và rồi lại phải quay trở về…

– Tụi tui đi nghen!

Tiếng anh Ba, đứng giữ cần lái trên mui ghe, gọi lớn từ giã những người trên trạm,
nhắc tôi trở về thực tại. Chú Sáu, trưởng toán công nhân, sốt sắng bước xuống cầu
tàu, để tháo dây giùm tôi và hẹn hò:
– Ừa!… dìa đi!… Ít bửa rồi ra đây mình nhậu tiếp!
Chờ tôi đón lấy khoanh dây và quấn gọn dây vào mũi ghe xong; chú Sáu xô mũi
ghe ra ngoài, cười thân mật và hô lớn cho anh Ba biết:
– Rồi đó!… Chạy đi!
Tôi cám ơn chú Sáu, rồi chống mạnh cây sào đẩy mũi ghe cho xoay thêm ra phía
ngoài sông. Anh Ba kéo cần lái qua phải, và tăng tốc độ, đem chiếc ghe vòng qua trái
để tách xa ra khỏi bờ, và chạy vào lòng sông dẫn về thành phố.

Ghe rời bến thì người trên trạm cũng tản mác, về nghỉ ngơi. Đèn trên trạm nối
nhau tắt bớt, chỉ còn thấy vài chỗ có ánh vàng vọt, mờ mờ, trong gian nhà công nhân.
Mỗi lần quay về trong đêm tối, trời mưa, tàu thuyền vắng… tôi đứng ngó ngoái lại, và
tần ngần nhìn biển cả đang xa mờ dần phía sau, lòng tiếc rẻ cơ hội trốn đi. Kéo đầu
cây sào trong nước thêm một lúc, để rửa cho sạch bớt bùn sình của đáy sông đã
bám vào. Tôi gác cây sào tre nằm tựa vào trong lòng khoang, rồi đi lên mui ngồi vấn
thuốc hút, chuyện trò với anh Ba và Vũ.
Đêm nay, ghe chở ít và nhẹ. Nhưng gặp lúc dòng nước trong sông đang đổ ra
biển; phải chạy ngược nước, nên cũng bị “nặng” ghe lắm. Ngoại trừ tiếng máy dầu
cặn và đèn từ ghe mình, sông nước và hai bên bờ tối vắng. Chạy suốt hơn một giờ,
không thấy bóng dáng ghe tàu nào di chuyển. Thời gian này, không ai đi đánh cá về,
và ghe tàu cũng không ra biển. Tàu mà chạy ra biển, thì chỉ có tàu công an đi tuần,
kiếm ghe tàu vượt biên để bắt mà thôi. Còn ghe tàu của dân chúng mà trở về thì chỉ
có đi vượt biên, và vì chạy lạc hướng, hay bị biển động mạnh quá nên phải quay vào
bờ…
Anh Ba ngó sang và bảo tôi:
– Em coi lái nghen… Hồi chiều ăn sớm quá, chắc ai cũng sót ruột; để anh xuống
nấu miếng cháo, anh em mình ăn thêm.

Anh Ba nói đúng. Khuya tối, trời mưa lạnh, có cháo nóng ăn thì còn gì bằng. Chúng
tôi đồng ý ngay. Tôi đứng dậy, bước sang cầm lấy cần lái; cho anh Ba rảnh tay, xuống
dưới mui để nấu cháo. Anh Ba siêng và chịu nấu ăn lắm. Anh làm thức ăn ngon, chế
biến đồ nhậu rất tài tình. Hút hết điếu thuốc, Vũ cũng rút xuống dưới mui, để kiểm
dầu, nước giải nhiệt, và coi lại máy móc.

Vào trong sông có phần bớt gió, nhưng mưa cũng còn khá nặng hạt. Về khuya,
đoạn sông này thưa vắng ghe xuồng và nhà dân, lâu lắm mới thấy ánh đèn trên bờ.
Ít nhà thì ít có lưới đáy giăng. Tôi phải ghi nhớ chỗ có cọc đáy, lưới giăng và các nơi
có chướng ngại vật, trên các tuyến đường ra cửa biển; để lái mà không cần rọi đèn
dò đường, khi chạy trốn. Đã quen thuộc lòng sông này; thỉnh thoảng, tôi mới mở đèn
pha để xem chừng sông nước và để các ghe tàu xung quanh thấy ghe mình từ xa.
Cần dưỡng máy để chờ thời cơ, tôi cho ghe thong thả chạy về bến công ty.
Đêm vắng buồn mênh mang, nhớ gia đình; nhìn tương lai tôi thấy sao vẫn mờ mịt
như trời biển đêm nay! Tâm trí đang lơ mơ trong đêm vắng mênh mông; bỗng tôi
nghe như có tiếng súng. Loạt đạn ngắn, nghe xa phía trước.
Tôi gọi xuống bên dưới mui:
– Ê, Vũ! Mày có nghe gì không?
Ngồi dưới hầm máy, Vũ ngó lên nhìn tôi, có vẻ ngạc nhiên:
– Nghe gì?!
– Hình như có tiếng súng … nghe đâu gần ghe mình!
– Tao có nghe gì đâu!
– Anh cũng dậy! máy chạy đùng đùng… hổng ấy, Vũ lên trên mui… nghe tiếp coi?!
Anh Ba nghe vậy cũng lo lắng lắm, góp ý với Vũ và tôi; rồi quay lại với nồi cháo
của mình. Vũ vội bước lên bên trên hầm máy, đứng nhóng người qua khung cửa trổ
lên trên mui, nhìn ra phía trước và nghe ngóng tiếp tôi. Hai đứa yên lặng, lắng nghe
một lúc cũng không nghe thêm tiếng súng, như tôi đã nghe. Tôi nghĩ, có thể mình
nghĩ ngợi lắm chuyện, nên trí óc lầm lạc.
Vũ vấn và đốt cho tôi điếu thuốc. Đứng hút thuốc, nhìn mưa đêm, mỗi đứa đều có
lắm ưu tư, chẳng ai còn muốn nói với nhau tiếng nào. Đêm khuya, có tiếng súng gần

khu trạm công an biên phòng, thường vì có tàu vượt biên bị đuổi bắt. Những ngày
sau đó, lại phải chứng kiến cảnh bà con mình bị hành hạ, hay xác người vượt biển
trôi dạt trên sông nước. Chúng tôi liên tưởng và lo cho trách nhiệm an toàn của mọi
người trên ghe, trong ngày vượt biển ; vì lắm điều nằm ngoài khả năng của ba anh
em. Tính toán thành hay bại, sống hay chết, còn tuỳ thuộc vào Ơn Trên, vào số mạng
may rủi.
Tôi mở thêm đèn trên mui ghe, và dùng đèn pha thường xuyên hơn, để tàu công
an biên phòng nhận ra ghe mình. Và nếu như chúng nó có rình rập đâu đó, không
nghi ngờ mà bắn bừa vào ghe chúng tôi. Cầm súng phục vụ cho đảng, họ đã được
dạy bảo rằng: “thà giết lầm, còn hơn bỏ sót”!

Anh Ba, cầm tách nước trà lên mui, bảo chúng tôi:
– Cháo chín. Anh ăn xong rồi. Để anh coi lái cho, hai đứa xuống ăn cháo đi.
Giao cần lái cho anh Ba. Chúng tôi cám ơn anh, rồi tuột xuống bên dưới mui kiếm
cháo ăn. Mặc dù không còn loại gạo thơm ngon, như thời trước khi bị cộng sản cướp
nước, cháo của anh Ba nấu vẫn hấp dẫn lắm. Anh Ba rất tỉ mỉ từ việc canh lửa, coi
chừng nước, cách quậy cháo… Hạt gạo bong nhừ, tự mỗi muỗng cháo trắng cũng
đã ngon, có thêm chút vị mặn mặn và béo của trứng vịt muối, thì ngon không thể tả.
Không cần phải có thứ tôm hạng xuất cảng, trong các thùng của công ty, bên dưới
khoang ghe…
Trong ngục tù cộng sản, cơm nấu từ gạo mốc, và sâu quện thành từng cục to hơn
trái chanh; lại trộn các thứ khoai hư, khoai sùng. Trong cơn đói triền miên, thèm khát
các thứ, người ta không kén chọn thức ăn. Hôm nào được bạn tù chia cho miếng
nước cơm gạo sâu cùng khoai sùng đó, ai cũng thấy ngon vô cùng. Ngậm từng chút
nước cơm, và nuốt chầm chậm chất nước beo béo ấy cho lâu hết. Nước cơm ấy quý
vô cùng, nó còn giúp ngăn ngừa bệnh phù thũng. Tối nay, có gạo để nấu cháo như
thế này, mấy anh em may mắn lắm rồi. Dân nghèo bây giờ chỉ còn biết mơ ước, mà
không bao giờ có được bát cơm, nấu bằng hạt gạo như ngày xưa ấy. Thế đấy, đảng
và quân cộng sản cưỡng chiếm miền Nam tự do lại gọi là “giải phóng”!

. . .

Ăn uống xong, có cháo nóng, thấy ấm áp cả người. Hai đứa tôi leo lên mui, ngồi
hút thuốc cho mát và nói chuyện với anh Ba cho có anh, có em. Tiếng súng lúc nãy,
như còn vang văng vẳng trong đầu, câu chuyện của ba anh em có vẻ lừng khừng,
rời rạc. Nói thì nói, nhưng người nào cũng có vẻ lắng tai nghe và lo ngại; những kẻ
có súng trong chế độ này, muốn bắn thì cứ bắn bừa, thà bắn lầm!
Ngồi hút điếu thuốc chưa hết, bỗng có loạt đạn, bắn đến hướng mình. Chưa kịp
nhận định được chuyện gì xảy ra, thì thêm mấy loạt đạn ngắn bay tới tấp, chát chúa
trên đầu.
Và rồi…
Phựt!
Đèn pha sáng rực rọi thẳng vào ghe. Nghe như luồng ánh sáng chói chang, phóng
nhanh tới đã mang theo tiếng nổ và hơi nóng.
– Dừng lại!
– Dừng lại!
– Công an! Công an biên phòng đây!
Cùng lúc với tiếng loa la hét dồn dập; bóng dáng chiếc tàu đánh cá cao lớn, dựng
mũi rẽ nước, phóng ào ào tới, rồi quặt lái, sàng ngang, nhập vào hông ghe chúng tôi.
Rầm!
Rào!… Rào!…
Rầm!…
Rầm!
Sức ép của chiếc tàu công an đè dẹp mấy cái vỏ bánh xe treo bên hông, xô đùa
chiếc ghe chở hàng thấp nhỏ chao đảo, chênh vênh, như muốn lật nghiêng.
Anh Ba vội vã hạ thấp tốc độ.
Vũ thả nhanh người xuống dưới mui, gấp rút gài trả về số lui, để thắng tàu lại.
Nhờ chạy ngược nước, chiếc ghe dừng nhanh lại.
Phập!
Cây móc từ tàu công an cắm lên mũi ghe.

Hai tên công an kéo ghịt chiếc ghe chúng tôi vào.
Rầm!…
Rầm!
Tôi chạy nhanh ra mũi, thả thêm vòng vỏ xe xuống, để chêm giữa mũi ghe đang
bị sóng nhồi, từng chập va đập mạnh vào thân gỗ cứng cáp của tàu công an. Đón
cuộn dây từ tên công an thảy qua, tôi quấn ghịt vào ghe mình và cột chặt, cho hai
chiếc kè sát nhau để bớt va chạm.
– Đ.M. ghe vận chuyển của thằng Ba đó hả?
Đúng là cái giọng nói và tiếng chửi thề quen thuộc của Ba Thơ.
Anh Ba lớn tuổi, nhận vai làm chủ ghe. Ba Thơ, trưởng phòng vận chuyển, thường
hách dịch gọi ghe của mấy anh em là “ghe của thằng Ba.”
Hắn ta đứng ngay ngoài mũi tàu, lên tiếng hỏi và nhảy sang trước. Một tên công
an ôm súng AK phóng nối sát theo sau.
Nhiệm vụ của Ba Thơ chỉ lòng vòng trên văn phòng xuống bến tàu, nhưng hắn
khoái đeo súng, đi theo công an bắt ghe tàu vượt biên lắm. Đối với hắn, có lợi nhiều
thứ. Vừa tạo thành tích nhiệt tình và lập công dâng đảng, vừa được chia chác số tiền
vàng, cướp được từ thuyền nhân.
Nhận ra Ba Thơ, tôi có phần yên tâm. Hắn thích la lối, nạt hỏi hung hãn, cho ra vẻ
có uy quyền mắng la dân chúng; chớ hắn đã quá quen thuộc hình dạng từng chiếc
ghe chở hàng cho công ty. Lúc này, nghe hắn lớn tiếng hỏi như thế, tức là hắn đã
biết chiếc ghe cùng mấy anh em trên ghe; thì chắc là bọn công an sẽ không xét hỏi
chúng tôi. Dùng giấy tờ với lý lịch của em trai, tôi phải cố né tránh bị xét hỏi giấy tờ.
Nhìn đống thùng hải sản to tướng, chất nằm chần dần trong khoang ghe, và được
che đậy bằng mấy tấm nhựa cho kín mưa gió, để chậm tan đá lạnh trong thùng. Ba
Thơ nghi ngờ, hất hất khẩu súng K54 trên tay, hỏi chận đầu tôi:
– Bao nhiêu đứa vượt biên trốn trong đó hả? … Đ.M. dở tấm bạt lên cho tao coi!
Nghe Ba Thơ la hét đòi xét ghe, thêm hai tên công an xách súng phóng sang, và
chạy rầm rập lại, đứng bên Ba Thơ chờ kiếm ăn. Đứng gần mấy tên công an mặt
vênh váo, nghe Ba Thơ chửi thề và ăn nói mày tao xấc xược, máu trong tôi sôi sục.

Cái lối Ba Thơ cầm cây K54 mà tay thì lúc la lúc lắc, miệng chỉ lo la lối, nói láp váp;
ai thấy cũng ngứa tay lắm, muốn giật lấy cây súng của Ba Thơ, cho bỏ ghét!
Kề súng vô đầu Ba Thơ là ba thằng nhóc công an trên ghe, đang đứng lớ ngớ,
ngố ngáo đó, phải quăng hết súng đạn xuống sàn ghe ngay tức khắc. Cái đám bên
tàu “biên phòng” mà bắn, thì bốn tên đồng chí, đồng rận với chúng nó bị chết trước…
Tôi nín lặng, nhảy xuống khoang ghe. Kéo tung các tấm bạt, cho bày các thùng
hàng ra, để Ba Thơ và đám công an muốn kiếm ai thì kiếm. Bốn tên phách lối, lăng
xăng, xúm xít. Đứa lật ván lót trên khoang ghe, đứa rọi đèn tìm kiếm ngoài hầm mũi,
bên dưới hầm máy, và các kẻ hốc lớn nhỏ trong ghe. Và rồi cũng không thấy ai là
người vượt biên trốn trên ghe cả. Ba Thơ xoay qua nạt nộ, hạch hỏi tiếp:
– Đ.M.!… tụi mày mấy hôm nay chạy tới đâu rồi? …. biển động quá trời mà!… Bây
mới quay lại phải hông? … Đ.M!… giấy chở hàng đâu? Đưa tao coi!
May quá, có cái cớ để khỏi đứng gần bọn công an; tôi vừa nói, vừa quay người
bước nhanh lên mui:
– Để tui lên giữ lái cho anh Ba xuống lấy giấy tờ…
Anh Ba nghe, và hiểu ý tôi bèn lên tiếng ngay:
– Em lên coi lái ghe giùm anh… Để tui xuống lấy Sổ Vận Chuyển trình cho chú,
nghen chú Ba!
Đứng trên mui coi lái. Ngó xuống mui, tôi thấy nồi cháo và mấy cái trứng còn đó.
Cũng may là nồi cháo nấu và ăn với hột vịt muối. Nhằm lúc Ba Thơ đang quạu quọ,
vụ lùng kiếm tàu vượt biên; giờ lại bắt được chứng cớ chúng tôi lấy tôm trong thùng
của công ty mà nấu ăn, thì thật là khốn khổ với hắn đêm nay!
Đưa sổ sách cho Ba Thơ xem. Đứng nhìn tên công an rọi đèn cho Ba Thơ kiểm
sổ sách, anh Ba nhẫn nhục, cười hề hà thăm hỏi:
– Có chiện chi dậy chú Ba!… Tụi tui nằm húp cháo ngoài ngoải mấy bửa nay. Trạm
mới cho xuống hàng để chạy dìa đây đó chú?
Ba Thơ lầm lì không thèm trả lời anh Ba. Tay hắn lật qua, lật lại, đọc tới, đọc lui
mấy trang sổ vận chuyển, chỗ ký nhận số lượng, và ngày giờ đi đến bến… Rốt cuộc
cũng không tìm được cái gì sai sót; Ba Thơ đưa trả sổ sách lại cho anh Ba.
Hắn hất hàm, hằn học ra lệnh:

– Đ.M. tụi bây!… Chở tao với mấy đồng chí đây đi kiếm tàu vượt biên cái coi!…
Đ.M.!… mới thấy nó, nó lủi trốn đâu mất. Tao mà thấy, tao nẹt cho bể đầu hết!
Anh Ba tìm cách để tránh né:
– Chú Ba ơi, chú biết mà, ghe tụi tui, nó rề rề lắm, mần sao mà chạy… đuổi, dới
lại bắt bớ được ai, chú Ba ơi!
– Đ.M. mày ngu quá, cần gì chạy cho lẹ mậy!… Có ghe tụi bây dí nó, tao kêu tụi
“biên phòng” lợi, bắn chết mẹ tụi nó hết… Hiểu chưa?
Cho dù động cơ có đủ mạnh, lòng dạ đâu mà giúp cho công an đi lùng bắt đồng
bào mình!
Anh Ba nhỏ nhẹ kiếm thêm cách để mà gỡ rối:
– Dạ!… Dạ trình chú Ba… dới lại mấy anh đây: mấy chục thùng tôm này bị nằm
kho cả bốn ngày nay rồi đó chú Ba!… Chú Năm Mạnh ngoài trạm sợ tôm hư, mới kêu
tụi tui chở dìa công ty gấp, “khẩn trương” ngay trong đêm nay đó!… Bây giờ, chú Ba
mà bắt ghe phải chạy tùm lum, tà la, lâu lắc, chậm lục quá đỗi… Ơ!… Tui… Tui sợ là
hai mươi hai thùng tôm này… nó mà bị sình thúi hết trơn, hết trụi… thì… mình bị trách
nhiệm nặng lắm đó chú Ba à!
Hải sản và vận chuyển là trách nhiệm chính của Ba Thơ; chớ không phải đi lùng
bắt vượt biên. Ba Thơ nghe anh Ba nói vậy, thì nhớ lại và lo sợ. Nguyên chuyến tôm
này mà hư, như anh Ba nói, thì hắn sẽ bị công ty khiển trách. Thế nhưng, Ba Thơ
xoay qua, hằn học:
– Lải nhải, lải nhải cái con mẹ gì!… Tụi bây muốn chạy dìa thì tao cho chạy dìa
đó… Đ.M.! Tao đéo có cần tụi bây!… Tao cho tụi bây có cơ hội mà góp công dới cách
mạng, để được nhà nước ban thưởng. Nhớ như thế đó!… Đ.M. Tao đéo có cần tụi
bây! Tao đi với tụi biên phòng!

Nói rồi, Ba Thơ ngó ba tên công an còn đang đứng xớ rớ gần đó, khoát tay mà
nạt bừa:
– Bây còn chờ gì hả?!… Đ.M. Đi dìa tàu!… Đi! Khẩn trương lên coi!
Ba anh em nghe thật nhẹ nhõm trong lòng!

Anh Ba kín đáo ngó nhanh chúng tôi, ánh mắt có nụ cười. Bước theo phía sau Ba
Thơ cùng đám công an ra ngoài mũi, anh Ba chờ cho tụi nó rời ghe hết, để tháo dây
ngoài mũi. Ba Thơ leo về tàu xong, hắn quay lại hất mặt với anh Ba, ngó Vũ và tôi
trên mui, tay lăm le cây K54 mà quẹt qua, quẹt lại, hướng về phía chúng tôi. Hắn lớn
tiếng gằn giọng hù doạ:
– Đ.M. Tụi bây khôn hồn à nghen!… Có thấy tàu tụi nó trốn đâu, thì mau mà báo
cáo, thì được nhà nước thuởng công cho. Còn mà ngu ngốc đồng loã dới tụi nó, thì
tao bắn nát đầu tụi bây hết! Đừng có hòng mà trốn thoát tai mắt cách mạng!… Đ.M.
Đi cho khuất mắt tao! Đi đi!
Thảy cuộn dây lên, trả lại cho tàu công an, anh Ba chống tay vào thành chiếc tàu
biên phòng mà xô cho ghe mình dạt xa ra, miệng nói vuốt theo cho êm xuôi:
– Dà… Có gì là tụi tui báo cáo cho chú Ba ngay mà!
Ba Thơ quay lưng bỏ đi, làm như không nghe anh Ba nói. Hắn nạt tên công an
trong phòng lái:
– Chạy đi chứ!… Đ.M. Chờ giống gì nữa!
Tên lái tàu nghe Ba Thơ la hét, bèn gắp rút hụ máy, tách tàu ra khỏi ghe chúng
tôi; rồi quay đầu mà phóng ào ào ra hướng cửa biển. Thoáng cái, nó đã mất bóng
dáng. Và rồi chốc sau, thì lại thấy ánh đèn pha chớp xẹt, lùng kiếm xa phía sau…

– Mình dọt được rồi!
Ngó lên tôi, đang đứng trên mui giữ cần lái, Vũ báo cho tôi biết, và gài số cho ghe
chạy tới. Bị tàu biên phòng kè nãy giờ, hai chiếc nằm xoay ngang mà thả trôi. Dòng
nước đùa ghe của chúng tôi ngược ra hướng cửa biển một đoạn khá xa. Tôi đẩy cần
lái qua phải, đem mũi quay vòng sang trái; lấy lại hướng, và cho ghe chạy về bến
công ty. Anh Ba cuộn dây xong, để trên nắp hầm mũi, rồi đi lên trên mui, ngồi cùng
băng ghế với tôi. Vũ vẫn đứng chồm người qua khung cửa trổ lên mui. Ba anh em
xót xa, ngó mông lung trong màn đêm.

Đêm tối đen.
Đêm vẫn đen.

Ngày trên quê hương bây giờ là đêm đen. Ngày qua ngày, ngày đã biến thành
những đêm đen dài như bất tận!
Hai bên bờ, đây, đó; vô số lùm cây, bụi cỏ… Vạn vật là muôn vạn hình thù đen
đủi, chờn vờn, run rẩy trong gió… Nơi đây có lẩn trốn, và nơi đây có rình rập để vồ
bắt những linh hồn bất hạnh. Quanh đây không thấy bóng dáng di động của ghe tàu
nào khác. Chúng tôi nghĩ đến chiếc ghe, đang bị Ba Thơ và công an biên phòng lùng
kiếm, mà lo lắng cho những người trên ghe. Không còn nghe tiếng súng; chắc là ghe
vượt biên còn đang trốn thoát. Cầu mong sao cho mọi người ra đi gặp được nhiều
may mắn, thoát khỏi móng vuốt của loài quỷ đỏ và đến được bến bờ tự do.
Tự do ơi tự do!
Ngày nào còn cộng sản, quê huơng mình còn lắm ly tan, lắm đoạ đày!

(KỲ TỚI: CHƯƠNG 6 – CHUYẾN ĐI CUỐI NĂM)

Bùi Đức Tính